ìm hiểu về các loại nguyên liệu cung cấp đạm (Nitơ) – Dạng Amoni
Căn cứ vào gốc chứa đạm mà phân thành hai loại, loại chứa gốc amon gọi tắt là phân amon và loại chứa gốc nitrat là phân nitrat. Các loại phân đạm ở dạng các hợp chất hữu cơ như ure, foocmandehyt ure và canxi xianamit có chứa gốc NH2 (amin) tuy là chất hữu cơ nhưng dễ tan, dễ phân hủy thành amon, cây dễ sử dụng không khác gì các loại phân vô cơ khác, lại được sản xuất từ công nghệ hóa học nên được xem là phân vô cơ (mặc dầu đó là các chất hữu cơ) và xếp vào nhóm phân amon.
1.Các loại phân amon:
Phân chứa gốc amon có amon clorua (A.Cl), amon sunfat (A.S), diamon photphat (DAP), amon bicacbonat (A.BC) và dung dịch amoniac.
Trên thương trường nước ta hiện nay chỉ có 3 loại đầu. Các loại dung dịch chứa amon được chú ý sử dụng ở các nước sử dụng phân bón vô cơ nhiều và trình độ cơ giới hóa nông nghiệp như Mỹ, Canada, và một số nước Tây Âu nhưng thiết bị đắt tiền chỉ áp dụng cho quy mô trang trại lớn nên không được mở rộng.
Amoni sunfat (Ammonium sulfate – A.S):
Amon sunfat thường ở dạng kết tinh nhỏ màu trắng, có thể có màu trắng tinh hoặc trắng ngà do ảnh hưởng của tạp chất. Để phân biệt với các loại phân khác có khi loại phân này còn được nhuộm màu xanh. Hình dạng tinh thể, màu sắc không ảnh hưởng gì đến tỷ lệ đam trong phân và hiệu quả. Sự kén chọn phân theo màu sắc và dạng tinh thể không có cơ sở khoa học.
Phân Amon sunfat có chứa 20-21% N và 23-24% S. Sản xuất càng thâm canh càng bón ít phân hữu cơ, đất càng lưu dễ thể hiện thiếu lưu huỳnh, lưu huỳnh trở thành yêu tố phân bón thứ yếu. Lưu huỳnh đặc biệt quan trọng cho cây họ thập tự (các loại cải), họ hành tỏi, họ chè (chè, cà phê, ca cao).
Phân Amon sunfat có thể làm đất chua. Muốn khử hết độ chua của 1 tạ Amon sunfat thì phải dùng 1.25 tạ CaCO3 hay 80kg CaO. Điều bất lợi này rất đáng chú ý ở các vùng đất quá chua và đất phèn. Tuy vậy cũng không nên quá quan tâm vì rằng chỉ phần axit tự do trong phân mới gây chua lâu dài mà phần này rất ít. Sự gây chua do sự hút chọn lọc của cây sẽ giảm nhiều khi tính đến sự hút lưu huỳnh của cây.
Tác dụng gây chua này dễ dàng khắc phục bằng cách dùng kết hợp amon sunfat với các loại phân lân kiềm như phân lân nung chảy hoặc bột photphorit.
Tất nhiên điều bất lợi này sẽ trở thành có lợi đáng kể ở vùng đất có pH quá cao như vùng đất kiềm cực Nam Trung Bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận).
Phần lưu huỳnh khá cao cũng có phần gây nên bất lợi khi bón cho đất lầy thụt giàu hữu cơ. Ở đây do điều kiện yếm khí lưu huỳnh bị khử chuyển thành khí H2S phá hoại rễ lúa, làm rễ lúa đen lại, thối. Cây lúa có hiện tượng giống hệt hiện tượng nghẹt rễ lúa thường gặp. Ở các loại đất này nên thay amon sunfat bằng ure.
Ở các vùng đất mặn sunfat cũng nên hạn chế sử dụng amon sunfat để tránh tình trạng tăng thêm độ mặn.
1. Amoni Clorua (NH4CL):
Amon clorua là loại phân chứa 22.5%-25% đạm amon và có đến 75% Cl-. Người ta thường không ưa amon clorua vì hai lý do: gây chua và để lại ion Cl- tồn dư trong đất. Ion Cl- tích lũy nhiều có thể gây mặc Cl- và ảnh hưởng xấu đến hệ vi sinh trong đất.
Mức độ gây chua của HCl cũng tương tự như amon sunfat và cũng như amon sunfat độ gây chua do A.Cl cũng không đáng lưu ý. Ion Cl- là ion rất dễ di động. Ở vùng nhiệt đới mưa nhiều, nhất là ruộng trồng lúa sự tồn đọng ion Cl- trong đất không phải là vấn đề đáng quan tâm. Thí nghiệm bón NH4Cl ở nông trường Ninh Hải sau sáu vụ liền không phát hiện thấy Cl- tích lũy đáng kể trong đất. Vai trò của Cl- đối với cây trồng chưa được nghiên cứu nhiều. Hàm lượng Cl- trong thân lá một số cây còn cao hơn đạm và lân. Ví dụ trong rơm rạ lúa, hàm lượng Cl- là 1.06% còn đạm là 0.06%, P là 0.09% (S.Yoshida). Ở các nước ôn đới hiệu quả của Cl- thể hiện một số cây mì mạch, củ cải đường.
Ở các vùng trồng lúa thâm canh được tưới sau nhiều năm Cl- bị hút và bị rửa trôi nên đất nghèo Cl- lẻ tẻ xuất hiện sự thiếu Cl-. Nông dân ta có tập quán bón muối cho ruộng. Chắc rằng hai ion Cl- và Na+ trong muối đều có tác động tích cực.
Vấn đề tác dụng của Cl- đến mức nào, triển vọng cần được xem Cl- là yếu tố dinh dưỡng như S hay không, chắc rằng còn nhiều tranh luận. Nhưng điều có thể khẳng định là bón amon clorua không gây hậu quả do tích lũy Cl- đến mức gây hại như ở các nước ôn đới. Nước ta có bờ biển dài trên 2500km, có thể sản xuất nhiều muối từ đó sản xuất axit clohydric và amon clorua.
Các thí nghiệm bón amon clorua cho lua so với amon sunfat hay ure đều cho hiệu quả tương đương có trường hợp còn cao hơn amon sunfat
Tuy nhiên, có một số loại cây nên hạn chế sử dụng amon clorua. Thuốc lá, thuốc lào amon clorua làm cho lá thuốc dày và chậm cháy. Hành tỏi gây mùi hôi, khoai tây cà chua, cỏ chăn nuôi, cà rốt, đậu rau, bắp cải và loại rau khắc làm tăng hàm lượng nước và làm giảm phẩm vị. Ở các nước phương Tây amon clorua ít được dùng như phân đơn mà dùng ở dạng phân hỗn hợp có chứa 2 thành phần amon clorua và kali nitra, ít bị chảy nước hơn dùng các loại phân này đơn lẻ
2. DAP – Diamon photphat
Diamon photphat là loại phân phức có hai yếu tố nito và photpho với tỷ lệ 18-20% N và 46-50% P2O5. Vì dân ta chú ý nhiều phân nito trong phân nên loại này thường được xem là loại phân đạm dạng amon, thực ra loại phân này nên được xem là loại phân lân thì đúng hơn.
3. Urê
Ure là một loại phân đạm ở dạng hữu cơ (CO(NH2)2) có chứa 46% N ở dạng amin (NH2). Nhà máy phân đạm Bắc Giang sản xuất ure hạt nhỏ, tỷ lệ 46%, chất lượng không khác gì loại ure nhập ngoại. Màu sắc trắng hay vàng ngà, hạt to nhỏ không liên quan gì đến chất lượng ure. Để giảm bớt chảy nước ure còn được sản xuất dưới dạng viên.
Foocmandehyt ure (U.F) là loại phân đạm hiệu quả chậm được tạo thành do tác động ure và andehit foocmic mà tỷ lệ đạm trong phân khác nhau. Loại phân thông dụng trên thị trường Mỹ có tỷ lệ N38%, tỷ lệ N tan trong nước nguội 25oC là 10%, tỷ lệ N tan trong nước nóng là 95-100oC là 28%.
Andehit foocmic còn gây tác dụng ức chế hoạt động của các loại sinh vật phân giải ure và nitrat hóa bị ức chế hoàn toàn. Càng giảm lượng andehit foocmic thì sự phân giải càng nhanh, đến tỷ lệ 2-1 thì tốc độ phân giải và nitrat hóa gần như ure bình thường và sự nitrat hóa gần như amon sunfat. Tỷ lệ thông dụng là 1.5-1.
4. Amoni bicacbonat (NH4HCO3):
Amon bicacbonat là loại phân đạm được điều tiết từ dung dịch amoniac và khí cacbonic. Vì loại phân này dễ dàng bị phân hủy ở nhiệt độ cao trên 30o và áp suất bình thường nên ít được sử dụng. Từ khi kỹ nghệ bao bì bằng túi polietylen phát triển loại phân này được chú ý hơn.
Amon bicacbonat là loại kết tinh màu trắng có chứa 17.5%N hòa tan trong nước dễ dàng và tạo ra phản ứng kiềm tạm thời, có thể khắc phục độ chua của đất nhưng khi gốc amon được cây hút thì phản ứng trở lại trung tính.
Amon bicacbonat khi bị phân hủy cho khí CO2 tản ra trên lớp không khí gần mặt đất lợi cho quang hợp.
Bón amon bicacbonat dùng cho ruộng màu cần bón sâu, lấp đất ngay để giảm sự mất amon. Bón cho ruộng lúa, phân cũng có thể hòa tan trong nước gặp nhiệt độ cao cũng bị mất đạm. Nếu nồng độ không cao sau khi bón làm cỏ sục bùn để phân quyện vào đất số lượng mất đi không nhiều. Các thí nghiệm đối với lúa ở Việt Nam trong nhiều vụ liền cho thấy hiệu quả của amon bicacbonat không kém amon sunfat là mấy.
Hiện nay ở một số địa phương Trung Quốc còn có sản xuất loại phân này và có một số được nhập vào Việt Nam theo tiểu ngạch. Amon bicacbonat được sản xuất xem như sản phẩm phụ của sản xuất ure, tận dụng dung dịch amon quá loãng không dùng làm ure được.
5. Canxi xianamit (CaCN2)
Canxi xianamit có hai loại trắng và xám đen tùy cách sản xuất. Đó là một loại phân ở dạng bột có chứa 20-21% ở dạng xianua (CN2) và 20-28% CaO. Khi bón vào đất chuyển thành axit xianamit H2CN2 rồi thành ure, thành amon bicacbonat nên cũng được xem là phân amon.
Các sản phẩm trung gian của quá trình phân giải amon từ canxi xianamic đều có thể gây độc cho cây và gia súc cho nên sử dụng khó khăn và chỉ có thể dùng bón lót. Tuy nhiên các chất này lại có thể dùng để diệt trừ sâu, nấm cỏ dại.Canxi xianamit có tác dụng khử chua mạnh. Canxi xianamit có thể dùng bón thúc nếu được sử dụng trộn với đất 5-7 ngày trước lúc bón